Tên Sách:

ĐỘNG VẬT CHÍ VIỆT NAM- FAUNA OF VIETNAM - TẬP 30 - LỚP CÔN TRÙNG- INSECTA- BỘ BỌ NHẢY- COLLEMBOLA

MỞ ĐẦU
Collembola là nhóm chân khớp không cánh nguyên thuỷ (Arthropod) nhỏ, sống trong đất, rất gần gũi với côn trùng điển hình nhưng cũng khác biệt về cơ bản so với côn trùng khác. Tên Việt Nam thường gọi là “bọ nhảy” hay “bọ đuôi bật”, dựa trên hình thức vận động của một bộ phận cơ thể, thực chất là một phần phụ, nằm ở mặt dưới đốt bụng thứ tư, có dạng như cái chạc chẽ đôi (chạc nhảy-Furca), giúp con vật vận động, có thể bật cao vài centimét khỏi mặt đất hay mặt nước. Kích thước của Collembola trưởng thành dao động từ 0,5 đến 8 mm, nhưng đa số loài chỉ từ 0,3-3 mm. 
Collembola có mặt ở khắp nơi trên Trái đất, liên quan đến tất cả các kiểu đất, các kiểu thảm thực vật, từ vùng đài nguyên giá lạnh đến các cánh rừng nhiệt đới xích đạo rậm rạp, hoặc những bãi biển đầy cát, nắng và gió. Chúng sống phổ biến trong lớp thảm vụn thực vật roi rụng trên mặt đất, trong các tầng nông, sâu của đất, nhưng cũng tìm thấy chúng ở trên thân cây, cỏ (tới độ cao vài mét cách mặt đất), trong các tổ chim, kiến, mối. Chúng sống cả ở nước ngọt và nước mặn. Chúng tham gia tích cực vào các quá trình sinh học của đất: quá trình chuyển hóa năng lượng, vận chuyển vật chất.

Về số lượng, chúng thường đứng sau ve, bét (Acarina) nhưng trong một số loại đất và trong những trường hợp nhất định, còn nhiều hơn cả ve, bét (Palacois-Vargas, 1983). Ở đất đồng cỏ Thụy Điển, số lượng Collembola đạt trung bình 110 nghìn cá thể/m2 đất, sinh khối trung bình đạt 140 mg/m2 (Perrson & Lohm, 1977). Theo tính toán của Schaller (1950), khi số lượng Collembola đạt 100 nghìn cá thể/m2, chúng tạo ra 183 cm3 phân, là những tiểu phần cấu trúc nhỏ, tức là tạo ra một lớp dày 0,2 mm/m2/năm.
Do có số lượng cá thể đông, phân bố rộng, thành phần loài phong phú, cơ thể còn giữ nhiều nét cấu tạo nguyên thuỷ, phương pháp thu bắt dễ dàng,... nên chúng là những đối tượng mẫu, thích hợp cho những nghiên cứu về hình thái, sinh thái so sánh là đối tượng lý tưởng để nghiên cứu quần thể trong số các nhóm phân huỷ mùn thực vật, nghiên cứu sự tiến hoá của các sinh vật ở hang, động,... Palacois-Vargas, 1983.
Thời gian gần đây, Collembola trở nên có ý nghĩa rất lớn trong lĩnh vực nghiên cứu sinh học đất. Nhiều bài báo, nhiều công trình nghiên cứu đã công bố ghi nhận việc sử dụng Collembola như những sinh vật chỉ thị nhạy cảm, đầy triển vọng cho các mục đích nghiên cứu sinh thái học khác nhau, phục vụ cho công tác kiểm tra, giám sát sinh học, sinh thái môi trường sống.
Ở Việt Nam, Collembola đã được điều tra, thu thập mẫu vật từ năm 1948 với công bố của Delamare Deboutteville C., mô tả 1 loài mới (Dicranocentroides coomani) và công trình của Denis J. R., liệt kê danh sách 17 loài Collembola được Dawydoff thu thập từ một số địa phương: Đắk Lắk, Đà Lạt, Đà Nẵng. Stach (1965) mới công bố tiếp kết quả nghiên cứu “Một vài Collembola Bắc Việt Nam” bao gồm 30 loài, trong đó bổ sung 20 loài cho khu hệ Collembola Việt Nam và 10 loài mới cho khoa học. Sau 30 năm gián đoạn, từ năm 1965 đến nay, khu hệ Collembola Việt Nam đã được điều tra, nghiên cứu một cách đồng bộ, liên tục. Từ 113 loài năm 1995, đến nay đã thống kê được 147 loài (trong đó có 28 loài được mô tả là mới cho khoa học) với dẫn liệu tương đối đầy đủ về phân bố, sinh thái và nơi lưu giữ vật mẫu.
Việt Nam nằm trong vùng nội nhiệt đới gió mùa Đông Nam Á. Đặc điểm khí hậu và đặc điểm địa hình rừng núi phân cách tạo nên nhiều sinh cảnh đa dạng và làm cho Việt Nam trở thành một trong những trung tâm hình thành và phát triển nhiều hệ động vật, thực vật (Hoàng Đức Nhuận, 1989). Số lượng 147 loài tập hợp trong quyển sách này, được soạn thảo dựa trên hàng nghìn mẫu vật thu thập ở nhiều địa phương, từ mô tả gốc của các tác giả nước ngoài và từ kết quả nghiên cứu trong 25 năm của tác giả, tuy còn cách xa với số loài có trên thực tế, hiện đang sống và tồn tại ở khắp mọi miền đất nước nhưng có thể xem là thành phần loài chủ yếu của khu hệ Collembola sống trong các hệ sinh thái trên cạn. Hiện còn một phần các quần thể Collembola cư trú ở một vài hệ sinh thái đặc thù như hệ sinh thái hang động, hệ sinh thái ở nước (nước ngọt, nước mặn) chưa được điều tra. Hy vọng sau công trình này, khu hệ Collembola Việt Nam sẽ được nghiên cứu sâu hơn, rộng và bao quát hơn để bản danh sách thành phần loài và dẫn liệu về sinh học, sinh thái của Collembola Việt Nam ngày thêm phong phú và đầy đủ.
Để hoàn thành tập sách này, tác giả xin chân thành cảm ơn Ban Chủ nhiệm Đề án Thực vật chí, Động vật chí, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật và Nhà xuất bản Khoa học tự nhiên và Công nghệ đã tạo điều kiện thuận lợi để tập sách được xuất bản. 
Tác giả cũng chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến xác đáng về chuyên môn của GS.TSKH. Đặng Ngọc Thanh, PGS.TS. Tạ Huy Thịnh; sự giúp đỡ nhiệt tình, tạo điều kiện thuận lợi trong nghiên cứu, thu thập tài liệu, trao đổi chuyên môn của các nhà khoa học trong và ngoài nước: cố GS.TSKH. Cao Văn Sung, GS.TSKH. Thái Trần Bái; cố Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học Liên bang Nga, GS.TSKH. Krivolutsky, TS. Sergeeva, TS. Babenko, Viện Sinh thái và Hình thái tiến hóa Moskva; TS. B. J. Wojciech, Viện Bảo tàng Kỹ thuật săn bắn và cưỡi ngựa Warszawa, Ba Lan. TS. R. J. Pomorski, Viện Động vật Trường Đại học Tổng hợp Wroclaw, Ba Lan. Chân thành cảm ơn sự hỗ trợ và cung cấp, thu thập mẫu vật của nhiều đồng nghiệp, nghiên cứu sinh, học viên cao học, sinh viên trong quá trình thực hiện công trình này.
Mặc dù đã dành nhiều thời gian, công sức cho việc soạn thảo, nhưng chắc chắn không tránh khỏi những sai sót. Mong nhận được sự góp ý, nhận xét của các nhà khoa học trong và ngoài nước, của bạn đọc.
Tác giả

Sách Động vật chí khác
ĐỘNG VẬT CHÍ VIỆT NAM (FAUNA OF VIETNAM) - Tập 28: CÁ BIỂN CÁC BỘ PERCIFORMES, OPHIDIIFORMES, SILURIFORMES VÀ SCORPAENIFORMES
Tác giả: Nguyễn Khắc Hường
ĐỘNG VẬT CHÍ VIỆT NAM (FAUNA OF VIETNAM) - Tập 27: LỚP CÔN TRÙNG - INSECTA BỌ CÁNH MÀNG - HYMENOPTERA HỌ ONG KÝ SINH - BRACONIDAE, CÁC PHÂN HỌ ALYSIINAE, APHIDIINAE, BETYLOBRACONINAE, BRACHISTINAE, DORYCTINAE, EUPHORINAE, EXOTHECINAE, MICROGASTRINAE VÀ ROGADINAE
Tác giả: Khuất Đăng Long
ĐỘNG VẬT CHÍ VIỆT NAM (FAUNA OF VIETNAM) - TẬP 31: GIUN TRÒN KÝ SINH- BỘ TRICHOCEPHALIDA, RHABDITIDA, STRONGYLIDA
Tác giả: Phạm Văn Lực, Nguyễn Thị Minh, Nguyễn Văn Đức
ĐỘNG VẬT CHÍ VIỆT NAM- FAUNA OF VIETNAM - TẬP 30 - LỚP CÔN TRÙNG- INSECTA- BỘ BỌ NHẢY- COLLEMBOLA
Tác giả: Nguyễn Trí Tiến
ĐỘNG VẬT CHÍ VIỆT NAM (FAUNA OF VIETNAM) - Tập 26: LỚP CÔN TRÙNG - INSECTA, PHÂN HỌ MUỖI SỐT RÉT (Diptera: Culicidae: Anophelinae), HỌ RUỒI XÁM (Diptera: Sarcophagidae)
Tác giả: Nguyễn Đức Mạnh, Trần Đức Hinh, Tạ Huy Thịnh, Nguyễn Thị Hương Bình
ĐỘNG VẬT CHÍ VIỆT NAM (FAUNA OF VIETNAM)- TẬP 29- TRAI, ỐC NƯỚC NGỌT NỌI ĐỊA VIỆT NAM (MOLLUSCA: GÁSTROPODA)
Tác giả: Hồ Thanh Hải, Đặng Ngọc Thanh